Phần 2. SÔNG NGÒI VÀ KHÍ HẬU
Những
dòng sông ngày cũ của Bắc Giang là những dòng nước như gương trong soi
bóng những hàng tre đôi bờ , là những dòng sông thanh tú nhất , đẹp
nhất của miền trung du Bắc Việt và cũng là những dòng thủy giang êm ả ,
bồi đắp những cánh đồng xanh mạ, ôm ấp những làng quê thôn dã quyện lam
xanh , đong đưa những con đò xuôi ngược, khua mái chèo nhịp nhàng sóng
nước tinh mơ, lung linh những vần thơ trữ tình, lững lờ theo mãi dòng
phù sa ngày tháng .
Là
dòng sông thương nhớ của Con Thuyền Không Bến vọng tưởng người thương,
hay là thời niên thiếu hẹn hò của Lá Diêu Bông, là nhắn nhủ Một Lời
Quan Họ, hoặc vẽ vời nhân ảnh trong Bức Tranh Quê của những thi nhân
nhạc sĩ tiền chiến trong thập niên 40 và 50
Nước sông Thương , bờ sông Đuống hay bóng sông Cầu hãy còn đó và mãi mãi trôi vào lòng người những ký vãng hoàng hoa !
Những dòng sông : sông Thương , sông Lục Nam , và sông Cầu rất đẹp của những ngày xưa !
Hai lưu vực sông Thương và sông Lục Nam ngăn cách riêng biệt hẳn nhau bởi dãy Bảo Đài , còn lưu vực của sông Thương và sông Cầu liền lạc nhau bằng những cánh đồng lúa , ở giữa là những ngọn đồi có độ cao từ 20-50 thước
Sông Thương :
...Một con thuyền, theo trăng trong
Trôi trên sông thương,
nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến....
Con Thuyền Không Bến - Đặng Thế Phong
Sông
Thương " thật sự " có tên là sông Nhật Đức, là một sông lớn ở địa
phận các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương và là một chi lưu của sông
Thái Bình.
Sông Thương bắt nguồn từ dãy núi Na Pa Phước, làng
Man, xã Vân Thuỷ, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, chảy trong máng trũng
Mai Sao - Chi Lăng, theo dãy Cai Kinh giữa những bờ đá , dòng sông nhỏ
lúc chảy mạnh khi chảy nhẹ và chảy vào địa phận tỉnh Bắc Giang ở Bố Hạ
( chính nơi đây sản xuất một giống cam quý nổi tiếng ở miền Bắc : cam
Bố Hạ , và cũng là đọan khai rộng nhất của con sông ) . Sông chảy qua
Phủ Lạng Thương độ 7,8 cây số và điểm cuối là thị trấn Phả Lại, huyện
Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Tại đây nó hợp lưu với sông Lục Nam ( gọi là
ngã ba Nhãn) và sông Cầu (ngã ba Lác), rồi tạo thành sông Thái Bình tại
chính ngã ba Lác.
Ngoài
ra , từ huyện Yên-thế , sông Thương có một phụ lưu là sông Sỏi chảy
tiếp nối đến Lạng Giang , Tân Yên , thành phố Bắc Giang và huyện Yên
Dũng.
Sông
Thương là một dòng sông nổi tiếng ở vùng Kinh Bắc , lưu lượng của nó
không điều hòa nếu không có đập Cầu Sơn trong việc phân phối lưu lượng
dòng sông vào những mùa khô hay lũ lụt , tiết chế và gia giảm lượng
nước tưới tiêu vào những cánh đồng ven sông ( cánh đồng Phát Lộc -
kênh Quảng Hiên dài 8 cây số ở Phủ Lạng Thương ) qua những con
kênh dẫn thủy nhập điền... Tuy nhiên , dòng sông Thương bình thường
(không gây lũ lụt trong mùa nước lớn ) thì dòng nước luôn trong xanh
thêm vào phong cảnh đôi bờ tạo cho dòng sông có nét hiền hòa và thi ý.
Và
chính nó cũng là một dòng sông chứng kiến bao cảnh biệt ly của những
gia đình quan quân đi trấn ải biên thùy Cao-Lạng hay tuân mệnh vua tiến
cống hàng năm , đây là đoạn cuối cùng mà triều đình cho phép thân nhân
gia quyến tiển đưa người đi trấn nhậm biên cương hay xuất sư viễn trình
v.v... , biết bao là thương cảm trông ngóng ngày về của sự biệt ly ,
người đi não chúng , kẻ vọng bơ phờ …, nên từ đó dòng sông này gọi là
sông Thương , thay vì là sông Nhật Đức là tên chính thức của nó .
Sông Thương nước chảy đôi dòng
Đèn khêu đôi ngọn em trông ngọn nào ?
Sông Thương nước chảy đôi dòng có thật chăng ?
Theo sự nhận xét của Toan Ánh , tác giả của quyển Miền Bắc Khai Nguyên thì chuyện có thật !
Đó
chẳng qua là hiện tượng nhập giang của con ngòi ( Đa Mai ) chảy từ cánh
đồng chiêm làng Đa Mai ( Mỹ Độ ) nối kết với dòng sông Thương ( nước
của cánh đồng chiêm thì đục đầy phù sa , gặp nước sông Thương trong
xanh , hai dòng nước không hòa lẫn với nhau ở một đoạn khá dài ( khoảng
100 thước ) . Hiện tượng này , ngày nay không còn nữa và sự phân ly của
người xưa đã hết , nhưng con sông Thương đã chảy vào lòng người những
tâm tình tràn ngập phù sa thương nhớ…
Và …cũng không biết từ
bao giờ hình thành một tập tục ( qua ca dao ) dẫn cưới của các chàng
trai Kinh Bắc khá nặng xu , khi phải lòng đến các nàng thôn nữ ở đôi bờ
sông Thương , có lẽ những động lực đó cũng không ngoài nét nổi bật
thường tình của “ nhất kiến “ !
...nước ở ngọn sông Đào vừa trong vừa chảy
Anh đi kén vợ mười bảy năm nay...
...Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắm , đôi trằm em đeo
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau ...
(và chữ " Thương " sẽ cứ mãi bình phương ! )
Sông Cầu :
Còn gọi là sông Như Nguyệt, sông Thị Cầu, sông Nguyệt Đức, là con sông quan trọng nhất trong hệ thống sông Thái Bình.
Sông
bắt nguồn từ vùng núi đồi Tam Đảo ( 1326 mét ) , thượng lưu nằm giữa
hai dãy cánh cung sông Gầm và Ngân Sơn chảy vào tỉnh Bắc Giang ở huyện
Hiệp Hòa , quanh co uốn khúc đến Yên Phong , khúc sông này có bến đò
Vọng nguyệt và Như nguyệt nổi tiếng là chiến tích oai hùng của Đại Việt
chống ngoại xâm . Tiếp đến , dòng sông Cầu nhận nước của sông Cà Lồ (
Vĩnh Phúc ) qua Mê Linh , Kim Anh rồi nhập vào sông Hương La ở bãi Ba
Sà , tiếp tục đến 4 huyện Yên Phong , Việt Yên , Yên Dũng và Quế Võ của
tỉnh Bắc-Ninh
Cuối cùng hợp với sông Thương và sông Lục Nam tại ngã ba Lác ( phía trên Phả Lại 10 cây số ) .
Lưu
vực sông Cầu là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt Nam, có vị trí
địa lý đặc biệt, đa dạng và phong phú về tài nguyên cũng như về lịch sử
phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh nằm trong lưu vực của nó.
Lưu
lượng thủy văn của sông Cầu bắt từ nguồn thượng lưu ( phía Nam đỉnh
Phia Bioóc (cao 1.578 m) của dãy Văn Ôn trong địa phận xã Phương Viên
huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn) , chảy ngoằn ngoèo giữa hai dãy núi Ngân
Sơn và dãy núi Sông Gầm theo hướng Bắc-Tây Bắc_ Nam-Đông Nam tới địa
phận xã Dương Phong, huyện Bạch Thông rồi đổi hướng để chảy theo hướng
Tây-Tây Nam _ Đông-Đông Bắc qua thị xã Bắc Kạn tới xã Mỹ Thanh huyện
Bạch Thông. Tại đây nó đổi hướng để chảy theo hướng Đông Bắc _ Tây Nam.
Tại xã Nông Hạ, huyện Chợ Mới, nó nhận một chi lưu phía hữu
ngạn, chảy về từ xã Mai Lạp cùng huyện theo hướng Tây Bắc-Đông Nam. Tới
địa phận thị trấn Chợ Mới, nó nhận một chi lưu nữa phía hữu ngạn rồi
đổi hướng sang Tây Bắc-Đông Nam. Tới
địa phận xã Văn Lãng (huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên), nhận một chi
lưu phía tả ngạn rồi đổi hướng sang bắc Đông Bắc-nam Tây Nam.
Tới xã Sơn Cẩm huyện Phú Lương nhận tiếp một chi lưu phía hữu ngạn là sông Đu rồi chảy qua phía đông thành phố Thái Nguyên.
Chảy
tới xã Nga My huyện Phú Bình thì đổi sang hướng Đông Bắc - Tây Nam tới
xã Thuận Thành huyện Phổ Yên nhận tiếp một chi lưu là sông Công.
Tới
ranh giới xã Mai Đình huyện Hiệp Hòa và xã Việt Long huyện Sóc Sơn (Hà
Nội) nó nhận một chi lưu nhỏ phía hữu ngạn là sông Cà Lồ rồi chảy tiếp
về phía Đông qua ranh giới của hai huyện Việt Yên và Yên Dũng với tỉnh
Bắc Ninh rồi hợp lưu với sông Thương tại ngã ba Lác ở ranh giới của xã
Đồng Phúc (huyện Yên Dũng) với thị trấn Phả Lại (huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương) để tạo thành sông Thái Bình.
Sông Cầu chảy vào mạn
tây tỉnh lỵ Bắc Giang ( phân chia ranh giới với Thái Nguyên và Bắc Ninh
) trong một hình dạng địa chất cong cong uốn lượn như một vầng trăng
non , nên người xưa gọi nó bằng một tên hoa mỹ là Như Nguyệt !
Đây là một dòng sông lịch sử của những người dân Đại Việt chống nạn xâm lăng cường quốc , bảo vệ đất nước vào cuối thế kỷ XI.
Nếu
dòng sông Bạch Đằng đã lừng lẫy nhận chìm thái tử Hoằng Tháo của nhà
Nam Hán xa xưa ( 936 ) , giăng bắt Giao Châu Sứ - Hầu Nhân Bảo ( Tống
-981 )..., thì Như Nguyệt là một chi sông tiếp nối của Bạch Đằng ( Lạng
Sơn -Quảng Yên và Bắc Giang , rất thuận tiện cho việc tiến chiếm Thăng
Long - 8 cây số bằng đường thủy ) cùng danh tướng Lý Thường Kiệt đã
anh dũng phá tan đoàn quân xâm lấn của Trung Hoa ở bến đò ( chiến tuyến
) Như Nguyệt và Vọng Nguyệt ( huyện Hiệp Hòa ) trên dòng sông Như
Nguyệt (1077) đuổi Quách Quỳ và Triệu Tiết ra khỏi bờ cõi nước Nam qua
4 câu thơ đẫm chất anh hùng :
Cầu Sáu-Ông ( bắc ngang sông Lục-Nam )
do công của 6 nông dân thuộc xã Tân Lập , bỏ công sức ra xây dựng:
( Phạm Văn Phán, Nguyễn Huy Đông, Phạm Văn Doãn, Hán Văn Tấn, Nguyễn Văn An, Nguyễn Văn Quý.)
Khí
hậu Bắc Giang gần như là khí hậu của vùng bình nguyên , dù rằng Bắc
Giang có núi đồi trùng điệp. Duy chỉ ở những vùng gần dãy Cai Kinh và
Bão Đài là nhiều khác biệt , có thể nói là khí hậu không trong lành và
độc hại như sơn cước thượng du .
Về mùa đông , nhiệt độ hạ
rất nhiều khi bắt đầu có gió thổi từ vùng cao nguyên. Trời mùa hạ , rất
ngột ngạt vào 3 tháng 6, 7 , 8 và khí trời di chuyển khó khăn qua những
thung lũng nhỏ hẹp. Nhiều nơi ở thung lũng sông Thương nước độc và có
mầm bệnh sốt rét phát sinh.Vùng Yên-thế cũng nước độc và chướng khí
xuất phát từ những cánh rừng .
Vùng bình nguyên tương đối an lành , nhờ những dòng sông , khí hậu được trung hòa và tốt lành .
Có thể phân chia khí hậu của Bắc Giang ra làm 3 giai đoạn trong năm :
- Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 9 .
- Mùa ấm và lạnh ít vào tháng 10 đến tháng giêng .
- Mùa mưa và ẩm thấp trong tháng 2 đến tháng 4 .
(còn tiếp)