|
|
|
|
Tháng 2 năm 1820 vua Gia Long băng hà, hoàng tử thứ tư là Nguyễn
Phúc Đảm được đưa lên ngai vàng, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Vua Minh
Mạng là người có nhiều đóng góp đối với công việc mở mang đất nước, đưa
nước Đại Nam lên hàng mạnh nhất trong các quốc gia Đông Nam Á lúc bấy
giờ.
Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng
Sơn lăng cho mình. Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt
ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn
Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng. Nhưng phải
ròng rã 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định
cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này. Nhà vua cho đổi tên núi Cẩm
Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng
là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do
các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên.
Tháng 4 năm 1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu. Vua sai các
quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển lính và
thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8 năm 1840, Minh Mạng lên
kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý nên giáng chức
các quan trông coi và đình chỉ công việc. Một tháng sau, công việc vừa
được tiếp tục thì Minh Mạng lâm bệnh và đột ngột băng hà vào tháng 1
năm 1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841)
đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương
chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa
đồ của vua cha để lại. Ngày 20 tháng 8 năm 1841, thi hài vua Minh Mạng
được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm
1843 mới hoàn tất. Từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động
và óc sáng tạo của con người đã hình thành một khu lăng tẩm uy nghiêm,
vừa rực rỡ về kiến trúc, vừa hài hòa với thiên nhiên lại vừa sâu sắc
bởi giá trị tư tưởng.
Trong khoảng diện tích được giới hạn bởi vòng La thành dài
1.750m là một quần thể kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ được
bố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700m, bắt đầu
từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua. Hình thể lăng tựa dáng
một người nằm nghỉ trong tư thế vô cùng thoải mái, đầu gối lên núi Kim
Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như
đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên.
|
|
|
|
Từ ngoài vào trong, các công trình được phân bố trên ba trục song
song với nhau mà Thần đạo là trục trung tâm. Xen giữa những công trình
kiến trúc là hồ nước ngát hương sen và những quả đồi phủ mượt bóng
thông, tạo nên một phong cảnh vừa hữu tình vừa ngoạn mục. Mở đầu Thần
đạo là Đại Hồng Môn, cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn
9m, rộng 12m. Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và
các đồ án trang trí cá chép hóa rồng, long vân... được coi là tiêu biểu
của loại cổng tam quan đời Nguyễn. Cổng chỉ mở một lần để đưa quan tài
của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra vào phải qua hai cổng
phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, lát
gạch Bát Tràng (sân rộng 45x45m), hai bên có hai hàng tượng quan văn
võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu. Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng
Thần Sơn, bên trong có bia “Thánh đức thần công” bằng đá Thanh ghi bài
văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha. Một
khoảng sân rộng tiếp theo chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác
choáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc, đó là sân
triều lễ.
Hiển Đức Môn mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong
một lớp thành hình vuông biểu trưng mặt đất (từ ý niệm trời tròn, đất
vuông). Điện Sùng Ân nằm ở giữa được coi là trung tâm, chung quanh có
Tả, Hữu Phối Điện (trước) và Tả, Hữu Tùng Phòng (sau) như những vệ tinh
chung quanh. Trong điện thờ bài vị của vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng
hậu. Hoằng Trạch Môn là công trình kết thúc khu vực tẩm điện, mở ra một
không gian của hoa lá và mây nước phía sau. Tất cả những công trình
mang tính hiện thực dường như dừng lại ở khu vực tẩm điện. Từ đây, bắt
đầu một thế giới mới đầy thư nhàn, siêu thoát và vô biên. 17 bậc thềm
đá Thanh đưa du khách vào khoảng trời xanh mát bóng cây và ngát thơm
mùi hoa dại. Ba chiếc cầu: Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật
(phải) bắc qua hồ Trừng Minh như dải lụa xanh, đưa du khách đến Minh
Lâu - một công trình như đột khởi từ quả đồi có tên là Tam Tài Sơn.
Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng
thanh gió mát, là nơi đi về của linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kết
thúc một thế giới hữu hạn; là “bộ ngực kiêu hãnh” của “con người” được
ví bởi hình dáng của khu lăng. Minh Lâu là sự thể hiện cách lý giải về
vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Tòa nhà này hình vuông, hai
tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông. Hai bên
Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và
Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi về
cõi vĩnh hằng.
|
|
|
|
Một cái hồ hình trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành. Đây
là hình ảnh của thế giới vô biên. Hồ hình trăng non ví như yếu tố “Âm”
bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành - biểu tượng của mặt
trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến
hóa ra muôn vật. Đó là nhân tố tác thành vũ trụ.
Bước qua cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt có 33
bậc tầng cấp đưa du khách vào thăm nơi yên nghỉ của nhà vua, nằm giữa
tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành
hình tròn. Hình tròn này nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng,
được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như
muốn thể hiện khát vọng ôm choàng trái đất và ước muốn làm bá chủ vũ
trụ của vị vua quá cố.
Hai bên trục chính của lăng có nhiều công trình phụ đối xứng
nhau từng cặp một. Tiếc rằng thời gian và mưa gió đã tàn phá chúng nên
ngày nay du khách không còn trông thấy những cung điện, đình tạ xinh
xắn nằm thấp thoáng giữa vòm cây, đêm ngày soi bóng xuống mặt hồ trong
xanh. Đó là các công trình như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn; Hữu Tùng
Phòng trên Ý Sơn; Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn; Linh Phượng Các trên
Đạo Thống Sơn; Truy Tư Trai trên Phúc Ấm Sơn; Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn
Thủy...
Bên cạnh hàng loạt các công trình kiến trúc có giá trị nghệ
thuật và thẩm mỹ cao còn có gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi
Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu cũng là những tuyệt tác vô
giá. Đó là một “bảo tàng thơ” chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế
kỷ XIX, là nơi phô bày tri thức, trí tuệ và tình cảm của người xưa.
Thăm lăng Minh Mạng, du khách ngỡ mình lạc vào không gian của
hội họa, thi ca và triết học. Sự uy nghiêm, nét tĩnh tại của kiến trúc
và khung cảnh gợi tình của thiên nhiên, hoa cỏ thể hiện tính cách
nghiêm khắc, tri thức uyên bác và tâm hồn lãng mạn của nhà vua. Hai
mươi năm tại vị, Minh Mạng đã đem đến cho giang sơn Đại Nam sự vững
mạnh, cho vương nghiệp họ Nguyễn một tiền đồ mới. Và con người đó đã
nằm xuống giữa chốn “thiên đường trần gian” đầy tiếng chim hót, hoa
đua... với sự thanh thản và mãn nguyện hoàn toàn.
Theo Trung Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Đô Huế